Thứ Ba, 27 tháng 7, 2010

độn giáp kiếm đấu 9

69.THIÊN BỒNG RẤT DỮ: CHỈ NÊN THỦ THÀNH VÀ YÊN DÂN.
(Sao Thiên Bồng Xuân - Đông thì tốt, Thu - Hạ thì hung).
Thiên bồng thủy là Đại hung tinh, chỉ nên giữ yên biên cảnh, giữ thành trì, vỗ yên
bình sĩ, an phần mộ, xây lăng tẩm. Nếu xây dựng, gả cưới bị thương.
70.XUÂN ĐÔNG RA QUÂN TƯỚNG TÁ ĐẠI THẮNG:
Thiên Bồng thủy tinh vượng ở tháng Dần Mão. Tướng ở tháng Hợi Tý.
Kinh rằng: Đại hung tinh vượng tướng khí hóa cát. Lại có câu: “Đại hung tinh vượng
tướng biến ra trung bình.
71.HẠ THU RA TRẬN, SĨ TỐT TỬ HÌNH:
Thiên bồng hưu ở tháng Tị Ngọ, Tử ở tháng Thân Dậu.
Kinh rằng: Bồng Trụ đại hung tinh, tướng binh chiến đấu tất vô công.
72.THIÊN NHUẾ RA QUÂN THÌ THẤY KHỐN:
Sao nhuế thuộc Thổ là Đại hung tinh, thuần âm, chỉ nên tụ họp bè bạn, tu nhân tích
đức. Nếu đem quân ra trận, sĩ tốt tử vong, Nguyệt kỳ theo nó có thể trừ nguy, tinh kỳ theo thì có thể giải sự công kích làm tan vũ lực Thu vượng, 4 tháng Thìn Tuất Sửu Mùi thì tướng…
73.THIÊN TRỤ XUẤT TRẬN: QUÂN NGỰA TIÊU TAN.
Nhật kỳ gặp thì ẩn nấp không tìm ra, tinh kỳ gặp thì cát, nguyệt kỳ thì hung.
Sao Thiên Trụ là Tiểu hung tinh, chỉ nên diễn binh, cố thủ, ẩn tích tàng hình. Kinh
rằng: “Thiên Trụ chi tinh, cương khí tại nội, bất khả dương binh, xuất tai xa mã toàn
khuynh”. Nếu dẫn quân đi ra mà thấy có mây xanh thì có sự loạn trong quân. Xe gãy, ngựa gục quân sĩ chết. Vượng tướng ở tháng…có mây đỏ thì bị hại, mây xanh thì gián điệp hại,mây vàng thì có sự kinh hoàng.
74.THIÊN XUNG NGÀN DẶM RA QUÂN: TRĂM NGƯỜI ĐỊCH VẠN NGƯỜI.
Sao Thiên xung giá thú thì tốt, thượng quan thì bị hao tài, chức nhà binh:lợi người.
Nếu gặp Tam kỳ và Hưu môn thì nên dùng vào việc quân. Gặp Nhật và tinh kỳ thì cát, gặp Nguyệt kỳ thì thường. Việc binh được hanh thông.
Thiên xung gặp mùa Xuân Hạ thì vượng tướng. Thu Đông thì không công.
75.THIÊN NHẬM BỐN MÙA GIÚP SỨC, BẮT GIẶC VỀ DINH.
Thiên nhậm Thổ là Đại cát tinh: Vượng ở tháng Thân Dậu, tướng ở bốn tháng Thìn
Tuất Sửu Mùi. Sao Thiên nhậm thì nên xin yết kiến quý nhân. Hành quân giá thú, tu tạo thì bất lợi.Trao đổi tiền tài hàng hóa, dựng vợ gả chồng mà được kỳ thì cũng tốt. Đem quân đi ngàn dặm, muôn sự đều tốt. Các thần thánh giúp đỡ, giặc tự quy hàng, gánh trời là tướng 4 mùa.trời đất phù trì, giặc chắp tay.
76.THIÊN PHỤ NÊN LUYỆN BINH TẬP TRẬN:
Thiên Phụ mộc tinh, nên ủy lại tướng sĩ, tập trận, đem quân nghìn dặm muôn sự đều
tốt. Kinh rằng: “Thiên phụ Tốn mộcthần kỳ tinh, lệnh thần ủy lạo tập kỳ binh”.
77.THIÊN ANH CHỚ ĐỘNG CHÚNG GIAO BINH:
Thiên Anh hỏa tinh, nên xuất nhập viễn hành, giá thú. Không nên xuất binh. Kinh
rằng: “Thiên anh chỉ thị thành vượng dinh, bất khả dương, quy đa ngoài……………, lại
nói: “Thiên anh Ly hỏa………………………, là võng bổ………………………, duy nghi
công tra triểu minh chu, nhược hoặc dương binh bị chấp câu”.
78.THIÊN CẦM RA TRẬN BỐN MÙA, ĐỊCH QUÂN QUI PHỤC:
Thiên Cần Thổ tinh, nên tế tự kỳ phúc, tiêu diệt quân hung, thưởng công công tước,
trăm sự đều tốt, hành quân bốn mùa đều tốt, có thần giúp không đánh mà được, địch nhân quy phục.
79.THIÊN TÂM ĐEM QUÂN ĐI NGÀN DẶM, THU ĐÔNG CÔNG THÀNH, nên
thư phù, hợp ước.
Thiên Tâm là Tiểu cát tinh, được kỳ thì đại cát. Vượng ở tháng Hợi Tý, Tướng ở
tháng Thân Dậu.Ra quân Thu Đông thì thắng lớn, bờ cõi ngàn dặm đất thu về. Gặp Xuân Hạ thì hung.
80.KHAI MÔN CHINH THẢO VẠN SỰ HANH THÔNG:
Cửa Khai là cát môn. Thu Đông Vượng nên đi xa chinh phạt.
Cửa Khai là thời vận đại thông, trăm công ngàn việc đón rước, giao dịch ăn uống, yết
quý nhân, mưu vọng giá thú di đồ tốt vô cùng. Ra quân các phương oai võ. Thương mại,
xây dựng dinh thự. Ra cửa đó thì gặp Quý nhân hay rượu chè. Muôn dặm đem quân bắt
giặc cùng.
81.HƯU MÔN TRI BINH LÀ RẤT TỐT:
Hưu môn thuộc Thủy là cát môn, tập nghiệp tri binh,…..trăm sự đều tốt. Kinh rằng:
“nhất dục hưu môn vạn sự hanh, sở nguyện cầu chi khả xứng tình, tam kỳ môn ngoại dân
binh khí, vạn thắng….toàn công tất thành”.
82.SINH MÔN RA TRẬN DỄ AI TRANH:
Sinh môn thuộc Thổ là cát môn, nên yết kiến và doanh tạo, chinh thảo theo Sinh môn
ra đại thắng. kinh rằng: “Sinh môn thì Sinh Sinh chi dục, cầu tài tu tạo tổng toàn hân, Sinh môn chi thương chủ dương vũ, đại lợi hành sư bách chiêu van”.
83.THƯƠNG MÔN ĐI BẮT HAY SĂN BẮN, NÓI ĐẾN HÀNH BINH ƯU HOẠN
SINH:
Thương môn thuộc mộc, nên săn bắn chài lưới, xuất hành gặp đạo tặc. Kinh rằng:
“Thương môn động chúng viễn kinh uy, ngư lập phùng chi chúng sự trì, bách chiền dương
binh lao phí lực, hành đa ưu hoạn tiến binh nguy”.
84.ĐỖ MÔN KIẾP THAI TÀNG HÌNH, ĐI HAY LẨN LỢI:
Đỗ môn thuộc Mộc, nên ẩn nấp phục dành hung nghịch, thâu doanh cướp trại thì đại
lợi, nếu cử binh động chúng đi tất là mê lẩn đường. Kinh rằng: “Đỗ môn tốn tắc khi âm
phong, tốt tong kỳ hạ chỉ tây đông, thâu doanh ẩn tích hành đại lợi, nhược cử binh hành mê muội hung”, chỉ nên đi ngầm mà không nên rõ rệt.
85.CẢNH MÔN DÂNG THƠ HIẾN KẾ, ĐỐT TRẬN PHÁ VÂY THÀNH:
Cảnh môn thuộc Hỏa, tiểu cát tinh, nên dâng thư hiến kế, đốt trận phá vây. Kinh rằng:
“Cảnh môn hưu dung chính đương huy, thương chủ hiến kế lợi đa từ, lô trận phá thành câu lô khi, nghi tổng môn hạ phá binh vi”.
86.TỬ CHỦ VIẾNG THĂM, ĐI HAY GẶP BỆNH:
Tử môn thuộc Thổ nên làm những việc hình phạt, điếu tang tống tử, xuất hành gặp
bệnh, chỉ lợi việc hung, không lợi việc cát, hành binh rất hung.
87.KINH BẮT KẺ GIAN, ĐI CÓ SỢ KINH:
Kinh môn thuộc Kim, chỉ nên tìm bắt kẻ gian, đấu tranh…..đi kiến hạn có kinh
khủng, xuất nhập không lợi.
88.TỪ ĐINH ĐINH XA ĐÁNH ĐỊCH QUÂN, TRĂM TRẬN TRĂM THẮNG:
Đinh Đinh là Quý thần trên trời, từ Đinh Đinh mà đánh ra phương xung thì thắng:
“Pháp đem nguyệt tướng gia chính thời” thấy sao Thần hậu ở đâu thì sao Đinh Đinh ở đấy.
bạch gian là kẻ gian ở trên trời, Bạch gian gia ở vào tứ mệnh thân là Dần Thân Tị Hợi.
Ngày Dần Ngọ Tuất thì bạch gian ở Hợi, ngày Hợi Mão Mùi thì Bạch gian ở….
Ngày Thân Tý Thìn ở phương Tị, Ngày Tị Dậu Sửu ở phương Thân.
89.NGUYỆT TƯỚNG TRONG 12 THÁNG:
Tháng giêng : Đăng minh Hợi. Tháng bảy : Thái ất Tị
Tháng hai : Hà khôi Tuất. Tháng tám : Thiên cương Thìn.
Tháng ba : Tòng khôi Dậu. Tháng chín : Thái xung Mão.
Tháng tư : Truyền tống Thân. Tháng mười : Công tào Dần.
Tháng năm : Tiểu cát Mùi. Tháng mười một : Đại cát Sửu.
Tháng sáu : Thắng quang Ngọ Tháng mười hai : Thiên hậu Tý.
VD: giờ Dần tháng giêng dụng sự, đem nguyệt tướng Đăng minh Hợi gia lên Dần
tính đi, thấy Thần hậu ở Mão thì là Đinh Đinh ở Mão vậy. Lại như tháng giêng giờ Tý
dụng sự, đem nguyệt tướng Đăng minh Hợi gia Tý tính thuận đi, thì thấy ở Thần hậu gia
Sửu thế là Đinh Đinh ở Sửu…..Kinh Rằng: “Bội đinh đinh kích bạch gian là vậy”.
90.THEO NGUYỆT KIẾN, THEO PHƯƠNG SINH KHÍ, MỘT MÌNH ĐỊCH
ĐƯỢC MUÔN BINH:
Nguyệt kiến nghĩa là tháng giêng kiến dần, tháng hai kiến Mão…..tính thuận đi đến
tháng 12 kiến Sửu.
Sinh khí nghĩa là tháng giêng Sinh khí ỏ phương Tý, tháng 2 ở Sửu, tính thuận đi đến
tháng 12 ở Hợi. Theo phương Nguyệt kiến Sinh khí ra….vào mà đánh phương đối xung thì
đại thắng.
Ông tướng đem quân ở rừng núi ra đánh đại…., một Đội theo phương Nguyệt kiến ra,
một đội theo phương Đinh Đinh ra, một đội theo phương Sinh khí ra mà đánh, thì một địch muôn người, trăm trận trăm thắng. kinh rằng: “Nhược chi hiếm đạo mưu toàn thắng, tam bộ phân binh đại phá uy”.
91.XEM DỤNG BINH CHỦ KHÁCH:
Động là Khách, Tĩnh là Chủ. Trong quẻ thì Thời can là tướng hiệu dụ binh, Trực sử
là Chủ bạn binh. Thái Âm là chủ phục binh. Nguyệt Can là Khách tướng hiệu. Nhật can là khách bạn binh. Lục Canh là Khách dụ binh. Huyền vũ là khách phục binh. Hễ thấy Sinh Vượng là Mạnh, Hưu Tù là yếu.
PHÉP DỤNG BINH
VD: Mình là hội tướng mệnh, xem hành quân vào ngày Đinh Mùi, giờ Ất Tị, Đại hàn
Dương độn hạ nguyên 6 cục.
Đem Giáp Thìn Lục Nhâm Trực phù ở Khảm gia lên Địa hạ Lục Ất thời can ở trung
ngũ (ký khôn). Thấy Canh với Đằng xà lâm Đoài cung gặp can Kỷ ở đó, như vậy là giặc
muốn đem quân đánh chặn đường lương thực mà vây chặt quân ta, may được ở cung Trực
sử có Giáp Mộc sinh Hợi tướng mệnh thiên bàn Đinh hỏa, tất là quân ta nhất tâm chống
lại, lúc này quân phục binh ở vị Thái âm mà đánh phá vậy.
VD: Mình là Hợi tướng mệnh, xem hành quân vào ngày Giáp Tý, giờ Tân Mùi, Hạ
chí Thượng nguyên Âm độn 9 cục.
Đem Giáp Tý Lục Mậu Trực phù gia lên Địa hạ Lục Tân thời can ở Kiền. Thấy Trực
sử Cảnh môn đến Khôn cung thiên bàn gặp Cửu địa ở Cấn và Kỷ Địa bàn. Thế là giặc ở
yếu địa cố thành lũy đợi. Đi lấy chỗ lập trận mà đen quân chặn sau quân ta, chặn đường lương thực, may được cung Trực sử, Canh môn thiên bàn Đinh hỏa sinh Hợi tướng mệnh thiên bàn Mậu thổ có cái tượng ba quân tuân lệnh, lúc này ta đem quân nghênh địch, phục súng đạn ở phương Tây nam, có vị Thái âm ở đó thì tất thắng lợi.
92.XEM CHỦ BINH:
Xét Địa bàn kỳ nghi với Thiên bàn kỳ nghi sinh hay khắc.
Lấy tướng mệnh làm chủ tướng binh, hễ thấy hạ thần sinh bản mệnh thượng thân thì
ba quân đồng tâm. (Nếu khắc thượng thần thì không đồng tâm). Canh, Huyễn vũ lâm vào
mệnh vị hay là Trực sử môn lâm Bính tất có giặc cướp trại, còn sự được thua xem thường hành kỳ nghi sinh hay khắc, khi dụng binh thiết kế, xem mệnh cung thiên bàn kỳ nghi, Thí dụ: được Ất kỳ thì chủ về việc nhân…
93.XEM KHÁCH BINH (XÉT THEO ĐỊA BÀN KỲ NGHI SINH KHẮC):
Lấy Lục thần làm Canh là địch. Thấy Nhật can, Nguyệt can thượng thần sinh Canh
thượng thần là khách binh nhất…., nếu khắc Canh thượng thần thì không có viện binh.
Canh gia Bính Đinh là đại hại. Còn xem sách tướng tinh, tinh dữ…..đặng thế nào thì xem ở thiên bàn Canh sở lâm thượng hạ cửu tinh tam kỳ.
94.XEM CHỦ KHÁCH ĐƯỢC THUA: xét theo địa bàn kỳ nghi sinh khắc.
Chủ tướng binh cùng khách tướng binh, hai thượng thần sinh nhau ấy là họa. Nếu chủ
khắc khách là chủ thắng, như khách khắc chủ là khách thắng. Chủ khách hành quân xem ở
bài Phú hành quân tam kỳ. Xem chủ khách ở phương nào thì xem ở Thiên bàn lâm dưới kỳ
nghi là gì? Như Giáp, Ất phương Đông, Bính Đinh phương Nam, lâm Mậu là ở bình
nguyên, lâm Kỷ là ở phù sa, Bính là ngọn núi cao, Đinh là chỗ quái thạch, Ất là chỗ hoang vu, rậm rạp. Nhâm là ở sông ngòi. Quý là sình lầy. Canh Tân là ở đường xá, miếu tù. Hành quân lấy tướng mệnh là chủ, liệu địch cần xét ở Lục Thân, nếu Canh lâm mà là đại cách tốt là quân ra nửa đường thua tan. Cứ lấy Canh bản vị thượng thần làm bảng phân phường.
95.XEM ĐẦU QUÂN:
Lấy Thiên xung làm người võ sĩ, lấu Trực phù làm ông chủ soái. Thấy Trực phù cung
sinh Thiên xung cung hoặc là cung Thiên xung sinh cung Trực phù thì một lần đi là được.
Nếu hai cung khắc nhau là không được. Nếu Thiên xung lâm Trực phù thì đi đầu quân tất làm bộ trưởng ngay, sau hẳn làm to, bị phục ngâm là về không, bị phản ngâm là dở đi dở lại không được.
96.XEM CÔNG THÀNH:
Lấy Lục Canh làm kẻ đánh, lấy Thiên Cầm là kẻ thủ, Lục Canh được vượng tướng,
lại được Khai môn gia vào cung ngũ trung thì thành ấy tất đánh được. Lại xem địa bàn lâm cung nào, nếu được vượng tướng và cát môn thì thành tuy bị phá nhưng người chủ tướng thì không bắt được, không được vượng tướng thì người chủ tướng phải chết.
97.XEM THỦ THÀNH:
Lấy Thiên Cầm làm kẻ thủ, Thiên bồng, Lục Canh làm kẻ đánh. Cung Thiên cầm có
Khai, Hưu Sinh, Cảnh môn hoặc có Lục Bính lại gặp vượng tướng thì chắc thành giữ
được, nếu không được vượng tướng và cát môn, lại gặp Thiên bồng, Lục Canh gia vào
cung trung thì hẳn là thành không giữ được.
98.XEM ĐẠO TẶC:
Địch binh đi lại phải phân giới hạn. Từ tiết Đông chí trở đi lấy Khảm Cấn Chấn Tốn
làm giới hạn bên trong, mà Khôn Ly Đoài Kiền làm bên ngoài.
Lục Canh bị lục cung khắc (Canh thiên bàn bị cung khắc) là giặc đóng trại không yên
ôn, hẳn là vì kinh sợ mà lui.Lục Canh mà khắc Lục cung, lại gặp Thiên bồng Huyền vũ hoặc Bạch hổ thì hẳn là có đại chiến.Lục Canh mà gặp Cửu thiên hẳn là đại trương thanh thế, mở cờ going trống mà tiến.Lục Canh gặp Cửu địa thì hẳn là giặc im cờ lặng trống mà đến. Muốn coi xem giặc bao giờ đi, nếu thấy Lục Canh ở vào bốn cung bên trong thì hẳn là không đi, mà ở vào bốn cung bên ngoài là đi. Xét Can Chi ở Địa bàn cung Lục Canh gia lâm thì sẽ biết ngày tháng năm của giặc đi hay đến, như gia vào năm tốt là một năm mới đi lui..v.v.v
Thấy Bạch nhập Huỳnh: tuy là điềm có giặc đến nhưng nếu thấy ở vào bốn cung
ngoài thì giặc cũng không đến.
Thấy Huỳnh Nhập Bạch thì tuy chủ là điềm giặc lui binh, nhưng nếu thấy gia vào bốn
cung trong thì giặc cũng chẳng lui.
99.XEM GIẶC ĐẾN THÀNH CÓ GIỮ ĐƯỢC KHÔNG:
Lấy Thời can làm Khách, thời Chi làm chủ (tức là cung Trực phù và Trực sử) xem
sinh khắc thế nào. Nếu như cung thừa Chi địa bàn bị cung Trực phù, Trực sử lạc cung
khắc chế, mà cung thời Chi lại có Lục Canh Huyền vũ lâm vào thì nên bỏ thành. Hoặc là
cung Trực sử dù bị hạ khắc thì thành này cũng không nên ở, nên lui ngay. Nếu cung Trực Phù với cung Trực sử cùng sinh vượng, tỉ hòa hoặc là cung Trực phù tự thụ hình khắc thì dẫu địch có đến cũng không thắng lợi được, mình cứ giữ mà không hại gì.
100.XEM ĐƯỢC THUA:
Phần chiến trận lấy Cảnh môn Kinh Môn là chủ. Kinh rằng: “Cảnh nên nghĩ phá trận,
Hưu trị loạn chi pháp yếu, Kinh môn lấy trực phù lập cung làm chủ. Lục Canh lạc cung
làm Khách. Cung Trực phù khắc cung Lục Canh thì Chủ thắng. Cung Lục Canh khắc cung
Trực phù là Khách thắng. Lại thấy nếu bên nào vượng tướng thì bên ấy thắng, bên nào
Hưu Tù thì thua.Chủ gặp Cảnh môn Kinh môn hay cung Khai môn tướng sinh thì Chủ thắng. Khách
được Cảnh môn Kinh môn hay Khai môn tướng sinh thì Khách thắng. Cung Chủ cung
Khách tương sinh hẳn là giẳng hòa. Chủ Khách đều gặp vượng tướng đều được Cảnh Kinh hai môn, lại không hình khắc nhau thì sức tương đương, hai bên sợ nhau không đánh đều lui. Nếu Lục Canh làm trực phù thì thế là Chủ Khách đồng cung, hai bên
không phân thắng bại. Nhật Can gia Canh thì Chủ thắng, Canh gia Nhật Can thì Khách thắng..
VD: Ngày Bính Tân, giờ Nhâm Thìn, Cốc vũ, Thượng nguyên, dương độn 5 cục.
Thấy Thiên Trụ đi với Lục Canh làm Trực phù, như vậy là hai bên bất phân thắng
bại, tự rút lui.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét